Ung thư đại tràng là gì? Các công bố khoa học về Ung thư đại tràng
Ung thư đại tràng là một loại ung thư phát triển từ lớp niêm mạc của thành đại tràng. Đại tràng là một phần cuối cùng của hệ tiêu hóa, nơi chứa chất thải từ quá...
Ung thư đại tràng là một loại ung thư phát triển từ lớp niêm mạc của thành đại tràng. Đại tràng là một phần cuối cùng của hệ tiêu hóa, nơi chứa chất thải từ quá trình tiêu hóa trước khi chúng được loại bỏ từ cơ thể. Tuy un thư đại tràng có thể xuất hiện ở bất kỳ khoảng nào trong đại tràng, nhưng nó thường phát triển từ polyps (u nhú) trên niêm mạc đại tràng. Khi không được phát hiện và điều trị kịp thời, un thư đại tràng có thể lan rộng sang các mô và cơ quan khác trong cơ thể, gây ra tổn thương và gây nguy hiểm đến sức khỏe.
Ung thư đại tràng là sự tăng sinh không kiểm soát của các tế bào trong niêm mạc đại tràng, hình thành các khối u ác tính. Ung thư đại tràng thường phát triển từ polyps, các u nhú trên bề mặt niêm mạc đại tràng. Một số polyps có thể tồn tại trong nhiều năm và dần biến đổi thành ung thư.
Các yếu tố có thể tăng nguy cơ mắc ung thư đại tràng bao gồm:
1. Lối sống không lành mạnh: Chế độ ăn uống ít chất xơ và giàu chất béo, ăn nhiều thịt đỏ và chất đồng và kẽm có thể tăng nguy cơ mắc ung thư đại tràng. Rượu, thuốc lá và lạm dụng chất kích thích cũng là những yếu tố tăng nguy cơ.
2. Liên quan đến tuổi tác: Nguy cơ ung thư đại tràng tăng lên với tuổi tác, đặc biệt từ 50 tuổi trở lên.
3. Những tiền sử bệnh trong gia đình: Có người thân trong gia đình (cha, mẹ, anh chị em) từng mắc ung thư đại tràng tăng nguy cơ được chẩn đoán ung thư đại tràng.
4. Bệnh trực tràng tán bột: Các bệnh nhiễm trùng, viêm loét, viêm đại tràng vi khuẩn hoặc tán bột dài ngày có thể tăng nguy cơ mắc ung thư đại tràng.
Triệu chứng của ung thư đại tràng có thể bao gồm: biểu hiện tiêu chuẩn như chảy máu trong phân, thay đổi phân, cảm giác muốn đi tiểu liên tục, mệt mỏi và giảm cân không rõ nguyên nhân. Tùy thuộc vào giai đoạn của ung thư, điều trị có thể bao gồm phẫu thuật, hóa trị, liệu pháp xạ trị và/hoặc liệu pháp tế bào gốc. Điều trị của ung thư đại tràng thường được cá nhân hóa dựa trên tình trạng sức khỏe, mong muốn và yêu cầu của từng bệnh nhân.
Ung thư đại tràng có thể chia thành các giai đoạn khác nhau dựa trên cách mà khối u đã lan rộng trong cơ thể. Giai đoạn sớm của ung thư bắt đầu từ giai đoạn 0 đến giai đoạn 1, trong đó khối u chỉ nằm trong tường thành của đại tràng và chưa lan sang các cơ quan khác. Giai đoạn tiến xa hơn từ giai đoạn 2 đến giai đoạn 4, trong đó ung thư lan rộng ra các lớp mô và cơ quan láng giềng như màng bụng, gan, phổi và xương.
Một số triệu chứng thường gặp của ung thư đại tràng bao gồm chảy máu trong phân (thường không đau), thay đổi phân như tiêu chảy hoặc táo bón kéo dài, một cảm giác muốn đi tiểu liên tục, mệt mỏi không rõ nguyên nhân và giảm cân không giải thích được. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp ung thư đại tràng đều có triệu chứng rõ ràng, đó là lý do tại sao việc thực hiện các cuộc kiểm tra định kỳ, chẳng hạn như xét nghiệm phân tìm máu ẩn, nội soi đại tràng và siêu âm, là cực kỳ quan trọng để phát hiện sớm.
Điều trị ung thư đại tràng thường bao gồm phẫu thuật, hóa trị, xạ trị và/hoặc liệu pháp tế bào gốc. Phẫu thuật thường là phương pháp điều trị ưu tiên, trong đó một phần hoặc toàn bộ của đại tràng bị tác động bởi khối u được cắt bỏ. Nếu ung thư đã lan sang các cơ quan khác, liệu trình điều trị có thể đòi hỏi sự kết hợp của nhiều phương pháp, chẳng hạn như hóa trị và xạ trị.
Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm tiền sử ung thư khác, tiền sử tế bào bạch cầu thành phần gia đình và các bệnh lý di truyền như bệnh dạ dày đa nang. Để giảm nguy cơ mắc ung thư đại tràng, việc duy trì một lối sống lành mạnh bao gồm ăn uống cân đối, tập thể dục đều đặn, không hút thuốc và hạn chế tiêu thụ cồn cũng có ý nghĩa quan trọng.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư đại tràng":
Các ước tính về tỷ lệ mắc và tử vong do 27 loại ung thư chính và tổng hợp cho tất cả ung thư trong năm 2012 hiện đã có sẵn trong series GLOBOCAN của Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế. Chúng tôi xem xét các nguồn và phương pháp đã sử dụng để biên soạn các ước tính tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư ở từng quốc gia, và mô tả ngắn gọn các kết quả chính theo vị trí ung thư và trong 20 “khu vực” lớn trên thế giới. Tổng cộng, có 14,1 triệu trường hợp mới và 8,2 triệu ca tử vong trong năm 2012. Những loại ung thư được chẩn đoán phổ biến nhất là ung thư phổi (1,82 triệu), ung thư vú (1,67 triệu) và ung thư đại trực tràng (1,36 triệu); những nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong do ung thư là ung thư phổi (1,6 triệu ca tử vong), ung thư gan (745.000 ca tử vong) và ung thư dạ dày (723.000 ca tử vong).
Tinh bột kháng (RS) là tinh bột và các sản phẩm tiêu hoá trong ruột non đi vào ruột già. Điều này xảy ra vì nhiều lý do bao gồm cấu trúc hóa học, nấu chín thực phẩm, biến đổi hóa học và quá trình nhai thức ăn. Vi khuẩn đường ruột ở người lên men RS và polyme không phải tinh bột (NSP; thành phần chính của chất xơ thực phẩm) thành các axit béo chuỗi ngắn (SCFA), chủ yếu là axetat, propionat và butyrate. SCFA kích thích lưu lượng máu và sự hấp thụ điện giải và chất lỏng trong ruột kết. Butyrate là nguồn dinh dưỡng ưa thích cho các tế bào ruột kết và dường như thúc đẩy kiểu hình bình thường trong các tế bào này. Quá trình lên men một số loại RS có lợi cho việc sản xuất butyrate. Việc đo lường quá trình lên men của ruột kết ở người là khó khăn, và các phương pháp đo gián tiếp (ví dụ, mẫu phân) hoặc mô hình động vật đã được sử dụng. Trong số này, chuột có vẻ có giá trị hạn chế, và lợn hoặc chó được ưu tiên hơn. RS hiệu quả trong việc cải thiện khối lượng phân kém hơn NSP, nhưng dữ liệu dịch tễ học cho thấy nó bảo vệ tốt hơn chống lại ung thư đại tràng, có thể qua butyrate. RS là một loại prebiotic, nhưng hiểu biết về các tương tác khác của nó với vi sinh vật còn hạn chế. Sự đóng góp của RS vào quá trình lên men và sinh lý ruột kết dường như lớn hơn so với NSP. Tuy nhiên, việc thiếu một quy trình phân tích chung được chấp nhận để đáp ứng các ảnh hưởng chính đến RS vẫn chưa được xác lập.
Hai phương pháp đã được sử dụng để chứng minh sự hiện diện của các kháng nguyên đặc hiệu tumor trong các khối u tuyến (adenocarcinoma) của đại tràng người: (a) thỏ được tiêm chủng bằng các chiết xuất từ các khối u đại tràng tổng hợp, và huyết thanh kháng ung thư được tạo ra đã được hấp thụ bằng chiết xuất tổng hợp từ đại tràng người bình thường và các thành phần máu của người; (b) thỏ mới sinh được làm miễn dịch dung nạp với mô đại tràng bình thường ngay từ khi sinh, và sau đó được tiêm chủng với chất liệu khối u tổng hợp trong đời sống trưởng thành. Mô bình thường và mô khối u được lấy từ cùng một người hiến tặng nhằm tránh sự hiểu nhầm về kết quả do sự khác biệt về kháng nguyên đặc hiệu của từng cá nhân.
Huyết thanh chuẩn bị bởi cả hai phương pháp đã được thử nghiệm đối với các kháng nguyên bình thường và khối u bằng các kỹ thuật khuếch tán gel agar, điện di miễn dịch, ngưng kết hồng cầu, PCA và miễn dịch huỳnh quang. Hoạt tính kháng thể rõ rệt nhắm vào ít nhất hai kháng nguyên đặc hiệu tumor chất lượng đã được phát hiện trong huyết thanh được chuẩn bị bởi cả hai phương pháp và ít nhất hai kháng nguyên khối u bổ sung đã được phát hiện độc quyền trong huyết thanh được chuẩn bị theo kỹ thuật dung nạp. Liệu các kháng nguyên bổ sung này có khác biệt chất lượng so với kháng nguyên mô bình thường, hoặc chỉ tồn tại trong mô khối u với nồng độ cao hơn so với mô bình thường vẫn chưa được xác định. Hơn nữa, đã chỉ ra rằng các kháng thể đặc hiệu tumor không nhắm vào các chất bẩn vi khuẩn hoặc vào nồng độ cao bất thường của fibrin có trong nhiều mô u ác tính.
Các kết quả từ những nghiên cứu này đã kết luận rằng các chiết xuất khối u tổng hợp chứa các kháng nguyên đặc hiệu tumor không có trong mô đại tràng bình thường. Các kháng nguyên đặc hiệu tumor giống hệt cũng đã được chứng minh trong một số khối u tuyến đại tràng cá nhân thu được từ các người hiến tặng khác nhau.
Curcumin là sắc tố màu vàng chủ yếu được chiết xuất từ nghệ, một loại gia vị phổ biến ở Ấn Độ và Đông Nam Á có tiềm năng ngăn ngừa và chống ung thư rộng. Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu hệ thống về dược lý và độc học của curcumin ở người đã được thực hiện.
Một nghiên cứu tăng liều đã được thực hiện để xác định liều dung nạp tối đa và mức độ an toàn của một liều duy nhất từ chiết xuất bột tiêu chuẩn, curcumin được nghiền đồng nhất (
Bảy trong số hai mươi bốn đối tượng (30%) chỉ gặp phải độc tính tối thiểu, không có vẻ liên quan đến liều lượng. Không tìm thấy curcumin trong huyết thanh của những đối tượng dùng 500, 1,000, 2,000, 4,000, 6,000 hoặc 8,000 mg. Mức độ curcumin thấp được phát hiện ở hai đối tượng dùng 10,000 hoặc 12,000 mg.
Khả năng dung nạp của curcumin ở liều uống đơn cao là rất tốt. Xét rằng việc đạt được sinh khả dụng toàn thân của curcumin hoặc các chất chuyển hóa của nó có thể không cần thiết cho việc phòng ngừa ung thư đại trực tràng, những phát hiện này đáng được điều tra thêm về công dụng như một tác nhân phòng ngừa ung thư trường kỳ.
Bối cảnh.— Dưới sự chỉ dẫn của College of American Pathologists, trạng thái hiện tại của hiểu biết về các yếu tố tiên đoán bệnh lý (các yếu tố liên quan đến kết quả) và các yếu tố dự đoán (các yếu tố dự đoán phản ứng với điều trị) trong ung thư đại trực tràng đã được đánh giá. Một nhóm đa ngành gồm các chuyên gia lâm sàng (bao gồm các chuyên ngành ung thư y học, ung thư phẫu thuật và ung thư xạ trị), bệnh lý và thống kê về ung thư đại trực tràng đã xem xét tất cả tài liệu y khoa liên quan và phân loại các yếu tố tiên đoán được báo cáo thành các danh mục phản ánh sức mạnh của bằng chứng đã công bố chứng minh giá trị tiên đoán của chúng. Theo đó, các danh mục các yếu tố tiên đoán sau đã được xác định. Danh mục I bao gồm các yếu tố được chứng minh rõ ràng là có tầm quan trọng tiên đoán dựa trên bằng chứng từ nhiều thử nghiệm đã công bố có tính thống kê mạnh mẽ và thường được sử dụng trong quản lý bệnh nhân. Danh mục IIA bao gồm các yếu tố đã được nghiên cứu rộng rãi về mặt sinh học và/hoặc lâm sàng và nhiều lần được chứng minh có giá trị tiên đoán cho kết quả và/hoặc giá trị dự đoán cho liệu pháp có tầm quan trọng đủ để được đưa vào báo cáo bệnh lý nhưng vẫn cần được xác thực trong các nghiên cứu thống kê mạnh mẽ. Danh mục IIB bao gồm các yếu tố đã được chứng minh là hứa hẹn trong nhiều nghiên cứu nhưng thiếu đủ dữ liệu để đưa vào danh mục I hoặc IIA. Danh mục III bao gồm các yếu tố chưa được nghiên cứu đủ để xác định giá trị tiên đoán của chúng. Danh mục IV bao gồm các yếu tố được nghiên cứu kỹ càng và được chứng minh là không có ý nghĩa tiên đoán.
Nguyên liệu và Phương pháp.— Tài liệu y khoa đã được xem xét một cách chặt chẽ, và phân tích đã chỉ ra các điểm cụ thể về sự biến đổi trong cách tiếp cận đã ngăn cản việc so sánh trực tiếp giữa các nghiên cứu đã công bố và ảnh hưởng đến chất lượng dữ liệu tổng hợp. Các danh mục về sự biến đổi được công nhận bao gồm các điểm sau: (1) phương pháp phân tích, (2) diễn giải phát hiện, (3) báo cáo dữ liệu và (4) đánh giá thống kê. Các điểm biến đổi bổ sung trong các danh mục này đã được xác định từ kinh nghiệm tổng hợp của nhóm. Các lý do để phân loại từng yếu tố tiên đoán vào danh mục I, II, III hoặc IV (các danh mục được xác định theo mức độ xác thực khoa học) đã được chỉ ra với tham chiếu đến các loại sự biến đổi cụ thể liên quan đến dữ liệu hỗ trợ. Đối với mỗi yếu tố và danh mục sự biến đổi liên quan đến yếu tố đó, các khuyến nghị chi tiết cho cải tiến đã được đưa ra. Các khuyến nghị được dựa trên các mục tiêu sau: (1) tăng cường sự đồng nhất và đầy đủ của đánh giá bệnh lý đối với mẫu khối u, (2) nâng cao chất lượng dữ liệu cần thiết để đánh giá xác định giá trị tiên đoán của từng yếu tố tiên đoán và (3) cuối cùng, cải thiện chăm sóc bệnh nhân.
Kết quả và Kết luận.— Các yếu tố được xác định có giá trị đưa vào danh mục I bao gồm: mức độ khu vực khối u được đánh giá qua bệnh lý (danh mục pT của hệ thống phân loại TNM của American Joint Committee on Cancer và Union Internationale Contre le Cancer [AJCC/UICC]); di căn hạch bạch huyết khu vực (danh mục pN của hệ thống phân loại TNM); xâm lấn mạch máu hoặc mạch bạch huyết; khối u còn lại sau phẫu thuật với mục đích chữa trị (phân loại R của hệ thống phân loại AJCC/UICC), đặc biệt liên quan đến các bờ phẫu thuật dương tính; và mức tăng kháng nguyên carcinoembryonic trước phẫu thuật (một yếu tố được xác lập bởi các phương pháp y học phòng thí nghiệm thay vì bệnh lý giải phẫu). Các yếu tố trong danh mục IIA bao gồm: mức độ khối u, trạng thái bờ radian (đối với các mẫu cắt bỏ với bề mặt không được phúc mạc hóa), và khối u còn lại trong mẫu cắt bỏ sau điều trị neoadjuvant (danh mục ypTNM của hệ thống phân loại TNM của AJCC/UICC). Các yếu tố trong danh mục IIB bao gồm: kiểu mô học, các đặc điểm mô học liên quan đến sự không ổn định microsatellite (MSI) (tức là phản ứng lympho của chủ thể đối với khối u và kiểu mô học tủy hay nhầy), mức độ MSI cao (MSI-H), mất đồng hợp tử tại 18q (mất allele gen DCC), và cấu trúc bờ khối u (biên xâm lấn so với biên đẩy). Các yếu tố được nhóm vào danh mục III bao gồm: hàm lượng DNA, tất cả các dấu hiệu phân tử khác ngoại trừ mất đồng hợp tử 18q/DCC và MSI-H, xâm lấn quanh thần kinh, mật độ mạch máu nhỏ, protein hoặc carbohydrate liên kết với tế bào khối u, xơ hóa quanh khối u, phản ứng viêm quanh khối u, phân biệt nội tiết thần kinh cục bộ, các vùng tổ chức hạt nhân và chỉ số tăng sinh. Các yếu tố thuộc danh mục IV bao gồm kích thước khối u và cấu hình khối u đại thể. Báo cáo này ghi lại những phát hiện và khuyến nghị của nhóm hội nghị đồng thuận, được tổ chức theo các hướng dẫn cấu trúc được xác định ở đây.
MỤC ĐÍCH: So sánh tỷ lệ đáp ứng, các chỉ số hiệu quả và hồ sơ độc tính của capecitabine dạng uống với fluorouracil cộng leucovorin (5-FU/LV) tiêm tĩnh mạch nhanh như là phương pháp điều trị đầu tiên ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng di căn.
BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP: Chúng tôi tiến hành ngẫu nhiên hóa 605 bệnh nhân để điều trị bằng capecitabine dạng uống trong 14 ngày mỗi 3 tuần hoặc bằng 5-FU/LV tiêm nhanh hàng ngày trong 5 ngày theo chu kỳ 4 tuần.
KẾT QUẢ: Tỷ lệ đáp ứng khối u khách quan tổng thể của tất cả bệnh nhân được ngẫu nhiên hóa trong nhóm capecitabine (24,8%) cao hơn đáng kể so với nhóm 5-FU/LV (15,5%; P = .005). Trong nhóm capecitabine và 5-FU/LV, thời gian trung vị để bệnh tiến triển là 4,3 tháng và 4,7 tháng (log-rank P = .72), thời gian trung vị thất bại điều trị là 4,1 tháng và 3,1 tháng (P = .19), và thời gian sống thêm trung vị là 12,5 tháng và 13,3 tháng (P = .974), tương ứng. Capecitabine, so với điều trị bolus 5-FU/LV, tạo ra tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy, viêm niêm mạc miệng, buồn nôn và rụng tóc thấp hơn rõ rệt (P < .0002). Bệnh nhân điều trị bằng capecitabine cũng thể hiện tỷ lệ mắc viêm niêm mạc miệng cấp 3/4 và giảm bạch cầu hạt cấp 3/4 thấp hơn (P < .0001) dẫn đến sốt bạch cầu hạt/ nhiễm khuẩn thấp hơn đáng kể. Hội chứng tay chân cấp 3 (P < .00001) và tăng bilirubin cấp 3/4 là những độc tính duy nhất liên quan đến capecitabine thường xuyên hơn so với điều trị 5-FU/LV.
KẾT LUẬN: Capecitabine dạng uống có hiệu quả cao hơn so với 5-FU/LV trong việc khởi phát đáp ứng khối u khách quan. Thời gian bệnh tiến triển và sống còn ít nhất cũng tương đương giữa capecitabine với nhóm 5-FU/LV. Capecitabine cũng cho thấy những lợi ích lâm sàng đáng kể về khả năng dung nạp so với bolus 5-FU/LV.
Môi trường vi mô của khối u bao gồm một mạng lưới phức tạp các tiểu quần thể tế bào T miễn dịch. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã phân tích hệ thống sự cân bằng giữa tế bào T độc và các phân nhóm khác nhau của tế bào T hỗ trợ trong ung thư đại trực tràng ở người, và chúng tôi đã liên hệ tác động của chúng đến khả năng sống sót không mắc bệnh. Một nhóm các gen liên quan đến miễn dịch đã được phân tích trong 125 mẫu khối u đại trực tràng đông lạnh. Số lượng tế bào T độc xâm nhập, Treg, Th1 và Th17 cũng đã được định lượng tại trung tâm và viền xâm lấn của các khối u. Bằng cách phân cụm theo thứ bậc của ma trận tương quan, chúng tôi đã xác định được các cụm chức năng của các gen liên quan đến Th17 (RORC, IL17A), Th2 (IL4, IL5, IL13), Th1 (Tbet, IRF1, IL12Rb2, STAT4), và tính độc tế bào (GNLY, GZMB, PRF1). Bệnh nhân có biểu hiện cao của cụm Th17 có tiên lượng xấu, trong khi bệnh nhân có biểu hiện cao của cụm Th1 có khả năng sống sót không mắc bệnh kéo dài. Ngược lại, không có cụm nào của Th2 dự đoán được tiên lượng. Phân tích kết hợp của cụm tế bào độc/Th1 và Th17 đã cải thiện khả năng phân biệt tái phát. Phân tích tại chỗ về mật độ của các tế bào IL17+ và CD8+ trong mô khối u đã xác nhận các kết quả. Phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng các cụm Th1 và Th17 chức năng có tác động đối lập đến khả năng sống sót của bệnh nhân trong ung thư đại trực tràng, và chúng cung cấp thông tin bổ sung có thể cải thiện tiên lượng. Ung thư Res; 71(4); 1263–71. ©2011 AACR.
MỤC ĐÍCH: So sánh hiệu quả và độ an toàn của capecitabine uống (Xeloda; Roche Laboratories, Inc, Nutley, NJ), một dạng carbamate fluoropyrimidine mới được thiết kế để mô phỏng truyền fluorouracil (5-FU) liên tục nhưng kích hoạt ưu tiên tại vị trí khối u, với 5-FU cộng leucovorin tiêm tĩnh mạch (5-FU/LV) là phương pháp điều trị đầu tiên đối với ung thư đại tràng di căn.
BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP: Chúng tôi đã sắp xếp ngẫu nhiên 602 bệnh nhân để điều trị với capecitabine 1,250 mg/m2 được kê hai lần một ngày từ ngày 1 đến 14 mỗi 3 tuần, hoặc chế độ bốn tuần của Mayo Clinic (5-FU/LV) cho đến khi bệnh tiến triển hoặc gây độc tính không chấp nhận được.
KẾT QUẢ: Mục đích chính, để chứng minh tỷ lệ đáp ứng ít nhất tương đương giữa hai nhóm điều trị, đã đạt được. Tỷ lệ đáp ứng tổng thể là 18,9% cho capecitabine và 15,0% cho 5-FU/LV. Trong nhóm capecitabine và 5-FU/LV, tương ứng, thời gian trung vị đến khi bệnh tiến triển là 5,2 và 4,7 tháng (log-rank P = .65); thời gian trung vị đến khi điều trị thất bại là 4,2 và 4,0 tháng (log-rank P = .89); và thời gian sống sót trung bình là 13,2 và 12,1 tháng (log-rank P = .33). Hồ sơ độc tính của cả hai phương pháp điều trị đều điển hình đối với fluoropyrimidines. Tuy nhiên, capecitabine dẫn đến tỷ lệ thấp hơn đáng kể (P < .00001) của viêm miệng và rụng tóc, nhưng tỷ lệ cao hơn của hội chứng bàn tay chân (P < .00001). Capecitabine cũng dẫn đến tỷ lệ thấp hơn (P < .00001) của viêm miệng độ 3/4 và giảm bạch cầu trung tính, dẫn đến tỷ lệ sốt bạch cầu trung tính và nhiễm trùng huyết độ 3/4 thấp hơn. Chỉ có hội chứng bàn tay chân độ 3 (P < .00001) và tăng bilirubin máu độ 3/4 không phức tạp (P < .0001) được báo cáo thường xuyên hơn với capecitabine.
KẾT LUẬN: Capecitabine uống đạt được hiệu quả ít nhất tương đương so với 5-FU/LV tiêm tĩnh mạch. Capecitabine thể hiện lợi thế an toàn quan trọng về mặt lâm sàng và tiện lợi của một dạng chế phẩm uống.
Các khối u thoát khỏi sự từ chối miễn dịch thông qua nhiều cơ chế đa dạng. Trong báo cáo này, chúng tôi trình bày rằng tế bào ung thư đại trực tràng SW620 biểu hiện Fas ligand (FasL) chức năng, tác nhân kích hoạt dẫn tới apoptosis thông qua thụ thể Fas (FasR) trong hệ miễn dịch. mRNA FasL và FasL trên bề mặt tế bào đã được phát hiện trong các tế bào SW620 bằng cách sử dụng phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR) và nhuộm miễn dịch mô học. Chúng tôi cho thấy rằng SW620 tiêu diệt các tế bào T Jurkat theo cơ chế phụ thuộc vào Fas. Việc điều trị bằng oligonucleotide đối kháng đặc hiệu với FasR, tạm thời ức chế biểu hiện FasR, đã bảo vệ hoàn toàn các tế bào Jurkat khỏi sự tiêu diệt bởi SW620. Điều trị bằng oligonucleotide đối kháng đặc hiệu với FasL trên SW620 cũng đã ức chế hoạt tính tiêu diệt Jurkat của nó. Gần đây, FasL đã được xác định là một yếu tố trung gian cho đặc quyền miễn dịch ở võng mạc chuột và tinh hoàn. Phát hiện của chúng tôi rằng các tế bào ung thư đại trực tràng biểu hiện FasL chức năng cho thấy nó có thể đóng vai trò tương tự trong việc cấp đặc quyền miễn dịch cho các khối u ở người. Các tế bào ung thư đại trực tràng HT29 và SW620 được tìm thấy biểu hiện mRNA FasR và FasR trên bề mặt tế bào bằng cách sử dụng RT-PCR và phân tích dòng chảy miễn dịch huỳnh quang, tương ứng. Tuy nhiên, cả hai loại tế bào này đều không trải qua apoptosis sau khi điều trị bằng kháng thể đơn dòng chống FasR kích thích CH11. Do đó, kết quả của chúng tôi gợi ý mô hình phản công Fas trong việc trốn tránh miễn dịch ở ung thư đại trực tràng, trong đó các tế bào ung thư kháng lại tính độc tế bào T phụ thuộc vào Fas nhưng vẫn biểu hiện FasL chức năng, một tín hiệu chết tế bào mà tế bào T hoạt hóa đặc biệt nhạy cảm.
Mục tiêu: Mục đích của báo cáo này là xem xét (a) các yếu tố tương quan đến ung thư đại trực tràng theo giới tính dựa trên dữ liệu quốc gia gần đây từ năm 2003 và (b) các mô hình sàng lọc ung thư đại trực tràng theo giới tính và hình thức xét nghiệm theo thời gian.
Phương pháp: Chúng tôi phân tích dữ liệu từ các Khảo sát Phỏng vấn Y tế Quốc gia năm 1987, 1992, 1998, 2000 và 2003. Mẫu nghiên cứu bao gồm nam và nữ từ 50 tuổi trở lên chưa bao giờ được chẩn đoán ung thư đại trực tràng và đã báo cáo về việc thực hiện gần đây các xét nghiệm máu ẩn trong phân và/hoặc nội soi.
Kết quả: Năm 2003, cả nam và nữ đều báo cáo tỷ lệ nội soi đại tràng cao hơn (32,2% và 29,8%, tương ứng) so với việc sử dụng xét nghiệm máu ẩn trong phân (FOBT) (16,1% và 15,3%, tương ứng) hoặc nội soi trực tràng (7,6% và 5,9%, tương ứng). Nam giới báo cáo sử dụng nội soi cao hơn nữ giới nếu họ có nguồn cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe thường xuyên, đã nói chuyện với bác sĩ đa khoa và có từ hai đến năm lần thăm khám bác sĩ trong năm qua. Nam và nữ từ 65 tuổi trở lên có tỷ lệ thực hiện bất kỳ xét nghiệm ung thư đại trực tràng khuyến cáo nào cao hơn (55,8% và 48,5%, tương ứng) so với những người từ 50 đến 64 tuổi (nam, 41,0%; nữ, 31,4%). Việc sử dụng các xét nghiệm ung thư đại trực tràng cũng cao hơn ở cả hai giới nếu họ không phải là người gốc Tây Ban Nha, có trình độ học vấn cao hơn, là người đã từng hút thuốc, có bảo hiểm y tế hay có nguồn cung cấp dịch vụ chăm sóc thường xuyên, hoặc nếu họ đã nói chuyện với bác sĩ đa khoa. Việc sử dụng các xét nghiệm ung thư đại trực tràng gần đây đã tăng kể từ năm 2000 ở cả nam và nữ, chủ yếu là do việc sử dụng nội soi đại tràng gia tăng.
Kết luận: Việc xét nghiệm ung thư đại trực tràng đang gia tăng ở cả nam và nữ, mặc dù tỷ lệ thực hiện xét nghiệm vẫn cao hơn ở nam giới. Dữ liệu của chúng tôi hỗ trợ các phát hiện trước đó ghi nhận sự chênh lệch về tình trạng kinh tế xã hội trong việc sử dụng xét nghiệm ung thư đại trực tràng. Các rào cản về khả năng tiếp cận để sàng lọc có thể đặc biệt khó khăn để vượt qua nếu nội soi trở thành hình thức sàng lọc ung thư đại trực tràng ưa chuộng. (Cancer Epidemiol Biomarkers Prev 2006;15(2):389–94)
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10